Tìm hểu về thị trường cà phê kỳ hạn
Hiện có khá nhiều tranh luận về việc ra đời của Thị trường tương lai (Futures Exchange) – TTTL. Tuy nhiên rất nhiều người đồng ý với bằng chứng cho rằng thị trường tương lai bắt nguồn vào khoảng thế kỷ thứ 17 trên thị trường gạo của Nhật Bản.
Vào thập niên 40 thế kỷ XIX, Chicago đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian đó, máy gặt McCormick đã được phát minh, giúp cho năng suất sản xuất lúa mì tại Mỹ tăng lên rất nhanh chóng. Do đó, những người nông dân trồng lúa mì từ khắp nơi đều quy tụ về Chicago để bán sản phẩm của họ. Nông dân Mỹ đã phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất, dự trữ hay bán hàng bởi các yếu tố như thời tiết, vận chuyển,... ảnh hưởng đến cung và cầu. Trong trường hợp giá cả tăng lên, nông dân luôn sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất, nhưng trong trường hợp giá cả giảm sút sẽ xảy ra hiện tượng bán tống bán tháo hàng loạt.
Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Ngoài ra, sự tồn tại những phương pháp nghèo nàn trong việc cân và phân loại hàng hóa đã đẩy người nông dân vào tình thế phải chịu sự định đoạt của các thương nhân. Cũng tương tự, những thương nhân luôn đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn do biến động trong giá cả gây nên.
Một cơ chế để có thể giảm thiểu hay hạn chế bởi những rủi ro trên là nhu cầu bức thiết. Bằng những thoả thuận trước về giá cả, người mua cũng như người bán có thể phòng ngừa được những rủi ro do biến động giá cả trong tương lai gây nên. Nhờ đó, nông dân xác định được một mức giá chắc chắn cho lượng hàng họ sẽ sản xuất ra mà không phải lo ngại về tình trạng nguồn cung quá lớn sẽ dẫn đến giảm giá, gây thiệt hại cho đời sống của họ. Những thương nhân đóng vai trò trung gian giữa nông dân và người tiêu dùng cuối cùng sẽ không còn phải lo ngại về những biến động bất lợi của giá cả khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự tính trước.
Tuy nhiên, cơ chế người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận trước những giao dịch trong tương lai, xác định trước về giá cả và ngày thời gian giao hàng tỏ ra không hiệu quả. Thực tế đó làm phát sinh yêu cầu cần có một có chế thị trường trung gian tham gia vào, đây là khởi điểm cho sự phát triển của Thị trường tương lai về sau.
Năm 1848, 82 thương gia đã đến Chicago và đã cùng thành lập nên Trung tâm giao dịch The Chicago Board of Trade (CBOT). Ở đó, người nông dân và các thương nhân có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mì theo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng do CBOT qui định. Nhưng các giao dịch ở CBOT bấy giờ chỉ dừng lại ở hình thức của một chợ nông sản vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng – trao tiền đủ, sau đó thì quan hệ các bên chấm dứt.
Trong vòng vài năm, một kiểu hợp đồng mới xuất hiện dưới hình thức là các bên cùng thỏa thuận mua bán với nhau một số lượng lúa mì đã được tiêu chuẩn hóa vào một thời điểm trong tương lai. Nhờ đó, người nông dân biết mình sẽ nhận được bao nhiêu cho vụ mùa của mình, còn thương nhân thì biết được khoản lợi nhuận dự kiến. Hai bên ký kết với nhau một hợp đồng và trao một số tiền đặt cọc trước gọi là "tiền bảo đảm". Quan hệ mua bán này là hình thức của hợp đồng kỳ hạn (forward contract).
Nhưng không dừng lại ở đó, quan hệ mua bán ngày càng phát triển và trở nên phổ biến đến nỗi ngân hàng cho phép sử dụng loại hợp đồng này làm vật cầm cố trong các khoản vay. Và rồi, người ta bắt đầu mua đi bán lại trao tay chính loại hợp đồng này trước ngày nó được thanh lý. Nếu thương nhân không muốn mua lúa mì thì họ có thể bán lại cho người khác cần nó hoặc người nông dân không muốn giao hàng thì họ có thể chuyển nghĩa vụ của mình cho người nông dân khác.
Giá cả hợp đồng lên xuống dựa vào diễn biến của thị trường lúa mì. Nếu thời tiết xấu xảy đến, thì người bán lại hợp đồng đó sẽ thu được nhiều lãi vì nguồn cung hàng đang thấp đi nên giá hợp đồng sẽ tăng; nếu vụ mùa thu được nhiều hơn sự mong đợi thì người bán hợp đồng sẽ mất giá vì người ta có thể trực tiếp mua lúa mì trên thị trường tự do. Cứ như thế, các quy định cho loại hợp đồng này ngày càng chặt chẽ và người ta quên dần việc mua bán hợp đồng kỳ hạn lúa mì mà chuyển sang lập các Hợp đồng tương lai lúa mì.
Vì chi phí cho việc giao dịch loại hợp đồng mới này thấp hơn rất nhiều và người ta có thể dùng nó để bảo hộ giá cả cho chính hàng hóa của họ. Từ đó trở đi, những người nông dân có thể bán lúa mì của mình bằng cả 3 cách: trên thị trường giao ngay (Spot/Forward), trên thị trường kỳ hạn (forward) hoặc tham gia vào HĐTL (futures).
Lịch sử phát triển của TTTL không dừng lại ở đó. Đến năm 1874, The Chicago Produce Exchange được thành lập và đổi tên thành Chicago Mercantile Exchange (CME), giao dịch thêm một số loại nông sản khác và trở thành TTTL lớn nhất Hoa Kỳ.
Năm 1972, CME thành lập thêm The International Monetary Market (IMM) – là thị trường đầu tiên trên thế giới giao dịch về tiền tệ. Sau đó, xuất hiện thêm các loại HĐTL tài chính khác như HĐTL tỉ lệ lãi suất (Interest rates), HĐTL về chỉ số chứng khoán...
Ngày nay, TTGS đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để bảo vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu hiệu nhất trong ngành tài chính. TTTL hiện nay hoạt động liên tục thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới.
Hợp đồng tương lai – Futures Contract:
1. Khái niệm
Hiện nay, các tài liệu tại Việt Nam có rất nhiều cách gọi cho loại hợp đồng này, cụ thể như : hợp đồng Future, hợp đồng Futures, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau... và khi gọi tên thị trường này thì cũng nhiều tên gọi khác nhau tương tự.
Tuy nhiên, dù tên gọi thế nào thì bản chất của Futures Contract cũng không thay đổi. Trong tài liệu này chúng tôi dùng thuật ngữ là HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI
"Là một thoả thuận được tạo lập trên một sàn giao dịch có tổ chức để mua hoặc bán một loại hàng hoá tiêu chuẩn tại một ngày trong tương lai với mức giá được xác định vào thời điểm hiện tại"
Có hai dạng Hợp đồng loại này:
- HĐTL được thanh lý sau khi giao hàng: Đây là loại hợp đồng tồn tại một sự giao hàng thực sự theo như thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp này, về bản chất thì HĐTL tương tự như hợp đồng kỳ hạn (forward).
- HĐTL được thanh lý trước ngày giao hàng: Đây là loại hợp đồng không có sự giao hàng trên thực tế xảy ra, các bên chấm dứt sự ràng buộc của mình đối với phía bên kia bằng nghiệp vụ thanh toán bù trừ, nghĩa là các bên mua lại hoặc bán lại chính loại hàng hóa đó ngược với vị thế mà mình đã có (vị thế mua hoặc bán trước đây). Đây là dạng phổ biến, nhờ đó mà tồn tại TTTL.
2. Đặc điểm:
Các điều khoản trong HĐGD được tiêu chuẩn hóa.
Để đảm bảo các hoạt động mua bán được diễn ra với tốc độ cao, với số lượng lớn và đảm bảo an toàn, các Sàn giao dịch tương lai luôn đặt ra các quy định để tiêu chuẩn hoá một cách tối đa các điều khoản trong hợp đồng. Các nội dung được tiêu chuẩn hóa trong HĐTL bao gồm: tên hàng, chất lượng, quy mô hợp đồng, thời gian giao hàng, các quy định về giá cả, thời gian giao dịch, phương thức giao dịch, ký quỹ, ngày thông báo đầu tiên, ngày giao dịch cuối cùng.
- Tên hàng phải là chính hàng hóa được phép giao dịch trên SGD đó. Hàng hóa đó có thể là một loại hàng hóa thông thường hoặc cũng có thể là các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, chỉ số... Mỗi SGD chỉ giao dịch một số loại hàng hóa nhất định.
- Chất lượng hàng hóa cũng được tiêu chuẩn hóa. Hàng hóa được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì SGD chỉ cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định.
- Quy mô hợp đồng: là số lượng của mỗi loại hàng hoá trong một hợp đồng trên mỗi sàn giao dịch. Chẳng hạn như một hợp đồng vàng có khối lượng là 100 ounces, hợp đồng dầu thô là 1000 barrels, hợp đồng Yen Nhật là 12.500.000 ¥, hợp đồng cà phê arabica là 37.500 pounds (tại NYMEX), hợp đồng cà phê robusta là 5 tấn (tại LIFFE),...
- Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là tháng giao hàng trong năm. Trong tháng giao hàng đó, ngày giao hàng được quy định cụ thể tuỳ vào loại hàng hóa và thị trường. Ví dụ như hợp đồng cà phê Robusta trên sàn LIFFE có các tháng giao hàng trong năm là 1, 3, 5, 7, 9, 11.
- Địa điểm giao hàng trong HĐTL do SGD quy định. Việc giao hàng này xảy ra khi các bên mong muốn thi hành hợp đồng.
- Ký quỹ: để tham gia vào giao dịch HĐTL, những người tham gia phải tuân thủ quy định đóng tiền ký quỹ, số tiền này để cam kết đảm bảo nghĩa vụ của họ khi đã giao dịch.
- Ngày thông báo đầu tiên, ngày giao dịch cuối cùng: sẽ được đề cập kỹ hơn trong các phần tiếp theo.
HĐTL được lập tại Sàn giao dịch qua các Trung gian môi giới.
Các giao dịch Hợp đồng tương lai chịu sự quản lý của Sàn giao dịch theo những nguyên tắc và quy định nhất định. Mọi giao dịch dù bằng hệ thống điện tử hay đấu thầu trực tiếp đều phải được thực hiện tại Sàn.
HĐTL được giao dịch theo phương thức đấu giá khớp lệnh, theo đó Sàn sẽ đứng ra làm trung gian để kết hợp các nhu cầu mua và bán lại với nhau. Do đó, khi tham gia HĐTL thì các bên chỉ cần biết là họ đang giao dịch cùng Sàn mà không cần quan tâm đến đối tác của mình là ai, các rủi ro về đối tác giao dịch được triệt tiêu hoàn toàn (Sàn giao dịch cũng có những cơ chế để kết hợp hai bên mua và bán nào đó nếu họ có nhu cầu).
Cơ chế thanh toán bù trừ (Clearing) là cơ chế vận hành chính của TTTL, dưới sự điều hành của Phòng thanh toán bù trừ của mỗi sàn giao dịch (Clearing House). Trong trường hợp người tham gia thực hiện giao dịch thanh toán bù trừ thì Clearing House (CH) sẽ cân đối, bù trừ vào tài khoản của các nhà đầu tư; còn trong trường hợp các bên muốn được thi hành hợp đồng thì CH sẽ là cầu nối, yêu cầu bên bán và bên mua giao nhận hàng tại kho hoặc nơi do CH chỉ định.
Ngoài CH ra thì còn có nhiều bên khác làm trung gian giúp cho việc giao dịch HĐTL. Đó là các công ty thanh lý thành viên, các nhà môi giới, ... làm trung gian thị trường. Các bên này có nhiệm vụ giúp CH xác định tư cách tham gia TTTL của các nhà đầu tư, giúp họ giao dịch bằng cách nhận lệnh của họ và đem đấu giá trên sàn.
Đa số các HĐTL đều được thanh lý trước thời hạn.
Một đặc điểm hết sức độc đáo của HĐTL mà các dạng hợp đồng khác không có được, đó là thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn. Trong các hợp đồng thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả thuận chuyển nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng buộc về nghĩa vụ với nhau.
Nhưng trong HĐTL thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cách dễ dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào bằng cách thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ là lập một hợp đồng ngược lại vị thế mà mình đã có. Cứ như thế, các bên có thể mua đi bán lại nhiều lần một loại hàng hóa vào một tháng giao hàng nhất định trong tương lai. Đến ngày giao hàng, nếu các bên không muốn giao hàng thực sự thì CH sẽ thanh toán bù trừ các loại hợp đồng đó và nghĩa vụ giao hàng cũng như nhận hàng của họ được chuyển giao cho người khác.
Chính đặc điểm này của HĐTL đã làm cho nó trở thành một công cụ phòng ngừa rủi ro giá cả rất hữu hiệu.
3. Một số thuật ngữ phổ biến:
Ask Price: Giá chào bán trên thị trườngBid Price: Gía chào mua trên thị trường
Backwardation: Tình hình thị trường mà giá hàng hoá ở các tháng xa thấp hơn các tháng gần
Contago: Tình hình thị trường mà giá hàng hoá ở các tháng xa cao hơn các tháng gầnBear
Market: Thị trường đang trong xu hướng giảm giá
Bull Market: Thị trường đang trong xu hướng tăng giá
Long Position: Trạng thái có Hợp đồng tương lai Mua (trạng thái Dương)
Short Position: Trạng thái có Hợp đồng tương lai Bán (trạng thái Âm)
Long Liquidation: Tất toán trạng thái
Long Position bằng cách Bán ra với một số lượng tương đương
Short Covering: Tất toán trạng thái Short Positon bằng cách Mua lại một số lượng tương đương
Margin Call: Yêu cầu bổ sung giá trị tài sản ký quỹ để đáp ứng yêu cầu của thị trường
Settlement Price: Là mức giá (thường là giá đóng cửa của ngày giao dịch) do Sàn giao dịch đưa ra để làm cơ sở quyết định
Margin CallFirst Notice Day: Ngày thông báo đầu tiên: mọi trạng thái
Long Position đều phải thanh lý trước ngày này nếu không sẽ chuyển thành nhận hàng thật.
Last Trading Day: Ngày giao dịch cuối cùng: mọi trạng thái
Short Position đều phải thanh lý trước ngày này nếu không sẽ chuyển thành giao hàng thật.
Nguồn sưu tầm từ internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét